Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu

TS. Đỗ Văn Huân
Tăng trưởng là rất quan trọng, nhưng xét về cơ bản và lâu dài thì cơ cấu là vấn đề quan trọng hàng đầu. Với vai trò như vậy, cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu thời gian qua đã đạt nhiều kết quả tích cực...

Trước đây khi nói đến cơ cấu, thông thường chỉ đề cập đến cơ cấu nhóm ngành kinh tế và các ngành nội bộ trong từng nhóm ngành. Riêng Việt Nam là nền kinh tế chuyển đổi, nên có đề cập đến cơ cấu thành phần kinh tế. Cần mở rộng việc đề cập cơ cấu trong một số ngành, lĩnh vực khác, như cơ cấu dân số, cơ cấu lao động, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo, cơ cấu trình độ kỹ thuật- công nghệ, cơ cấu lao động qua đào tạo, cơ cấu tích lũy, tiêu dùng, cơ cấu ngân sách, cơ cấu tiền tệ,…

CƠ CẤU NHÓM NGÀNH KINH TẾ 

Cơ cấu nhóm ngành kinh tế là cơ cấu phổ biến nhất trong các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đồng thời là cơ cấu quan trọng nhất.

Nhìn biểu đồ 1 cho thấy, trong giai đoạn 2010-2022, cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nhóm ngành kinh tế đạt một số kết quả tích cực.

(1) Nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản tiếp tục là “bệ đỡ” của nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao hơn 3 năm trước, khi 2 nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ gặp tác động lớn hơn bởi đại dịch Covid-19 xuất hiện ở Việt Nam vào năm 2020, bùng phát vào năm 2021, nhưng 2 nhóm ngành này vẫn tăng trưởng dương và góp phần tạo điều kiện để 2 nhóm ngành này phục hồi tăng trưởng trong năm 2022.

Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu - Ảnh 1

Trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản đã có xu hướng giảm độc canh lúa, phát triển toàn diện hơn. Tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm, của ngành lâm nghiệp, của ngành thủy sản tăng. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất, trong đó có đất đai, tỷ trọng trong tổng diện tích gieo trồng năm 2022 tăng, giảm so với 2005 như sau (biểu đồ 2).

Về tiêu thụ, sản phẩm xuất khẩu có sự tăng tốc đáng kể. Nhiều nông, lâm - thủy sản xuất khẩu vượt lên đứng hàng đầu thế giới, như kim ngạch xuất khẩu năm 2022 của gỗ và sản phẩm gỗ đạt 15.857 triệu USD (năm 2020 là 313 triệu USD); thủy sản: 10.930 triệu USD (năm 2020: 1.479 triệu USD); cà phê: 3.943 triệu USD (2020: 501 triệu USD); rau quả: 3.338 triệu USD (2020: 213 triệu USD).

Mặc dù vậy, với đặc điểm phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, trong khi cơ sở vật chất kỹ thuật còn hạn chế, có năng suất lao động (năm 2021) thấp nhất trong 3 nhóm ngành (chỉ bằng 43,2% mức năng suất lao động chung, thấp xa so với năng suất lao động nhóm ngành dịch vụ, thấp xa hơn nữa so với năng suất lao động nhóm ngành công nghệ - xây dựng), có tốc độ tăng trưởng GDP thấp nhất trong 3 nhóm ngành (tăng 3,36% so với tăng 7,78% của công nghiệp - xây dựng và tăng 9,99% của dịch vụ),… nên tỷ trọng nông, lâm nghiệp - thủy sản trong GDP giảm xuống hiện ở mức thấp nhất trong 3 nhóm ngành. Điều đó là phù hợp với xu hướng chung của thế giới, phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

(2) Tỷ trọng công nghiệp - xây dựng tăng lên qua các năm. Trong nhóm ngành này: tỷ trọng ngành khai khoáng giảm mạnh, từ 10,52% năm 2005 xuống còn 2,82% năm 2022; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo (tiêu chí và là biểu tượng của nước công nghiệp) đã tăng khá, từ 20,7% năm 2005 đã tăng lên 24,76% năm 2022.

Theo đó, xuất khẩu sản phẩm ngành công nghiệp khai khoáng giảm (than đá: giảm từ 1.615 triệu USD năm 2010 xuống còn 411,1 triệu USD năm 2022; dầu thô: từ 5.024 triệu USD năm 2010 giảm còn 2.316 triệu USD năm 2022); xuất khẩu sản phẩm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng mạnh, trong đó tăng mạnh nhất là điện thoại và linh kiện, đạt 59.292 triệu USD năm 2022 (năm 2010 là 2.307 triệu USD); tăng cao thứ hai là điện tử, máy tính (năm 2022 đạt 55.242 triệu USD, 2010: 5.590 triệu USD); thứ ba là máy móc, thiết bị và phụ tùng (năm 2022 đạt 45.722 triệu USD, năm 2010: 3.057 triệu USD).

Sự chuyển dịch cơ cấu này đã góp phần chuyển đổi cơ cấu và tăng tổng kim ngạch xuất khẩu.

(3) Trong nhóm ngành dịch vụ, tỷ trọng trong GDP của một số ngành có sự tăng, giảm.

Như vậy, trong khi tỷ trọng tự cấp tự túc giảm, tỷ trọng mua bán trên thị trường tăng, nhưng tỷ trọng thương nghiệp hàng hóa giảm, tỷ trọng kinh doanh bất động sản giảm, thì tỷ trọng các hoạt động dịch vụ khác tăng (như vận tải kho bãi; thông tin và truyền thông; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ; giáo dục và đào tạo; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội).

Trong nhóm ngành công nghiệp - xây dựng, tỷ trọng doanh nghiệp có kỹ thuật - công nghệ hiện đại còn thấp, tỷ trọng doanh nghiệp có kỹ thuật - công nghệ lạc hậu còn lớn,… Ngay trong ngành cơ khí, sản xuất nguyên vật liệu, như ngành sắt thép chẳng hạn, sản lượng phục vụ xây dựng cơ bản là chủ yếu, sản lượng thép phục vụ cơ khí chế tạo còn ít ỏi.
Trong nhóm ngành công nghiệp - xây dựng, tỷ trọng doanh nghiệp có kỹ thuật - công nghệ hiện đại còn thấp, tỷ trọng doanh nghiệp có kỹ thuật - công nghệ lạc hậu còn lớn,… Ngay trong ngành cơ khí, sản xuất nguyên vật liệu, như ngành sắt thép chẳng hạn, sản lượng phục vụ xây dựng cơ bản là chủ yếu, sản lượng thép phục vụ cơ khí chế tạo còn ít ỏi.

Bên cạnh những kết quả tích cực, về cơ cấu nhóm ngành kinh tế cũng còn một số vấn đề đặt ra.

Đối với nông, lâm nghiệp - thủy sản, có 3 vấn đề lớn về cơ cấu. (i) Đối với sản xuất, vấn đề lớn nhất là tính phân tán, quy mô nhỏ của kinh tế hộ đặt ra vấn đề về sửa Luật Đất đai, giải quyết tình trạng không hấp dẫn, thậm chí là thờ ơ đối với đồng ruộng ở một số vùng nông thôn. (ii) Chất lượng sản phẩm còn hạn chế cả về mặt vệ sinh an toàn thực phẩm, cả về chất lượng, cả về khâu bảo quản, cả về chế biến làm tăng giá trị sản phẩm). (iii) Về thị trường tiêu thụ, thị trường xuất khẩu còn phụ thuộc vào một số thị trường, nhất là những thị trường thường thay đối cơ chế nhập khẩu về tiểu ngạch, hoặc dùng các rào cản kỹ thuật để hạn chế khi quy mô xuất khẩu và xuất siêu từ Việt Nam vào đây lớn.

Đối với công nghiệp - xây dựng, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo còn thấp xa so với mục tiêu, so với tiêu chí của nước công nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp hỗ trợ còn yếu. Tỷ trọng gia công, lắp ráp, ngay cả với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn lớn, nên thu nhập của người lao động còn thấp, lại còn phụ thuộc vào nhập khẩu. Tỷ trọng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong sản xuất công nghiệp còn lớn (trên 50% giá trị sản xuất). Tình trạng chuyển giá để giảm lợi nhuận, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Tính lan tỏa từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sang khu vực kinh tế trong nước còn ít,…

Trong nhóm ngành công nghiệp - xây dựng, tỷ trọng doanh nghiệp có kỹ thuật - công nghệ hiện đại còn thấp, tỷ trọng doanh nghiệp có kỹ thuật - công nghệ lạc hậu còn lớn,… Ngay trong ngành cơ khí, sản xuất nguyên vật liệu, như ngành sắt thép chẳng hạn, sản lượng phục vụ xây dựng cơ bản là chủ yếu, sản lượng thép phục vụ cơ khí chế tạo còn ít ỏi...

Quý vị độc giả có thể đặt mua ấn phẩm Kinh tế 2022-2023: Việt Nam và Thế giới tại đây.

https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam

Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu - Ảnh 2

Tin mới

Nhà phân phối dừng hợp tác phút chót, tương lai BYD tại Việt Nam vẫn là ẩn số

Nhà phân phối dừng hợp tác phút chót, tương lai BYD tại Việt Nam vẫn là ẩn số

Việc New Energy Holding (NEH) - công ty con thuộc Tasco Auto, là một trong những đối tác phân phối lớn nhất vừa bất ngờ thông báo ngưng hợp tác với BYD Việt Nam là thông tin đang nhận được nhiều sự quan tâm trong ngành ô tô vì thời điểm thông báo dừng hợp tác diễn ra vào “phút chót”. Thông này là tin không vui với hãng xe Trung Quốc BYD khi bước chân vào thị trường Việt Nam trong tháng 6 sắp tới.
VinFast tung VF 3 với giá siêu rẻ, phân khúc xe điện mini Việt lên "cơn sốt"

VinFast tung VF 3 với giá siêu rẻ, phân khúc xe điện mini Việt lên "cơn sốt"

Nhà sản xuất ô tô điện Việt Nam, VinFast vừa bất ngờ thông báo giá bán chính thức của “tân binh” VF 3 chỉ từ 235 triệu đồng, khiến cộng đồng yêu xe cả nước “dậy sóng”. Nhiều ý kiến cho rằng, mức giá này đủ để VinFast “càn quét” cả phân khúc xe điện mini mới được khai phá cách đây 1 năm.
Bộ Công an đề xuất thay đổi hàng loạt phân hạng Giấy phép lái xe

Bộ Công an đề xuất thay đổi hàng loạt phân hạng Giấy phép lái xe

Trong dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ do Bộ Công an vừa hoàn thiện, Bộ Công an đề xuất phân hạng về các loại Giấy phép lái xe (GPLX) xe mô tô, ô tô. Cụ thể, GPLX mô tô có hạng A1, A, B1; trong khi đó ô tô có tới 12 hạng GPLX và đề xuất cấp GPLX cho người khuyết tật đảm bảo điều kiện sức khỏe.