Ông Powell cứng rắn về lãi suất

Bình Minh
Những phát biểu này của Chủ tịch Fed cho thấy rõ khoảng cách ngày càng lớn về kỳ vọng lãi suất giữa Fed và các ngân hàng trung ương lớn khác...
Chủ tịch Fed Jerome Powell - Ảnh: Bloomberg.
Chủ tịch Fed Jerome Powell - Ảnh: Bloomberg.

Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell ngày 16/4 nói rằng có thể sẽ “mất nhiều thời gian hơn dự kiến” để lạm phát giảm về mục tiêu 2% và Fed có thể cắt giảm lãi suất.

“Chúng tôi cho rằng cần phải đạt được sự tin tưởng lớn hơn rằng lạm phát đang giảm một cách bền vững về 2% để tạo điều kiện phù hợp cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ”, nhà lãnh đạo ngân hàng trung ương quyền lực nhất thế giới tại một hội thảo.

“Dữ liệu lạm phát gần đây rõ ràng không mang lại cho chúng tôi sự tin tưởng lớn hơn đó, mà thay vào đó lại cho thấy có thể sẽ mất nhiều thời gian hơn dự kiến để đạt tới sự tin tưởng như vậy”.

Trong cuộc họp chính sách tiền tệ vào tháng 3, Fed vẫn còn giữ ý định cắt giảm lãi suất 3 lần trong năm nay từ mức cao nhất 23 năm là 5,25-5,5% hiện nay. Tuy nhiên, với các số liệu kinh tế Mỹ gần đây cho thấy tăng trưởng còn vững và lạm phát còn cao, thị trường tài chính tin rằng Fed chỉ có thể cắt giảm lãi suât 1-2 lần trong năm nay là cùng. Bởi vậy, kỳ vọng về thời điểm của đợt giảm lãi suất đầu tiên đang ngày càng trở nên bấp bênh.

Sau báo cáo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) nóng hơn dự báo mới đây, các nhà giao dịch đã từ bỏ hy vọng Fed bắt đầu giảm lãi suất vào tháng 6. Hiện tại, họ cho rằng Fed sẽ bắt đầu giảm lãi suất vào tháng 9. Sau phát biểu ngày 16/4 của ông Powell, thị trường gia tăng đặt cược vào khả năng Fed chỉ có 1 lần giảm lãi suất duy nhất trong năm 2024.

Thay vì CPI, mục tiêu lạm phát của Fed gắn với một thước đo lạm phát khác là chỉ số giá tiêu dùng cá nhân (PCE). Ông Powell cảnh báo việc PCE lõi - chỉ số không bao gồm giá năng lượng và thực phẩm - gần như đi ngang trong tháng 3 so với tháng 2, với mức tăng 2,8% so với cùng kỳ năm ngoái.

Ông nói thêm rằng nếu tính theo kỳ 3 tháng và 6 tháng qua, mức lạm phát tính theo cơ sở năm “thực chất còn cao hơn so với mức đó”.

Những phát biểu này của Chủ tịch Fed ho thấy rõ khoảng cách ngày càng lớn về kỳ vọng lãi suất giữa Fed và các ngân hàng trung ương lớn khác.

Trước đó cùng ngày 16/4, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) Christine Lagarde nói ECB vẫn giữ chủ trương cắt giảm lãi suất “trong thời gian tương đối sớm”, miễn sao không có cú sốc lớn nào từ Trung Đông hay các “chảo lửa” địa chính trị khác. Giới quan sát hiện dự báo ECB bắt đầu cắt giảm lãi suất vào tháng 6.

Bà Lagarde nói ECB “đang quan sát một tiến trình giảm lạm phát” phù hợp với dự báo của cơ quan này, và do đó tin tưởng rằng lạm phát của khu vực eurozone sẽ giảm về mục tiêu 2% vào khoảng giữa năm tới, cho dù chặng đường đến có có thể sẽ gập ghềnh.

“Nếu không có cú sốc lớn nào xảy ra, chúng tôi sẽ đi tới thời điểm mà chúng tôi sẽ phải nới bớt chính sách tiền tệ thắt chặt mà chúng tôi đang có, một cách tương đối sớm”, bà Lagarde nói với hãng tin CNBC.

Cả Fed và ECB đều đã mạnh tay nâng lãi suất trong các năm 2022-2023 để chống lại mức lạm phát cao nhất trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ với sức chống chịu bền bỉ hơn so với châu Âu cũng đồng nghĩa áp lực giá cả ở Mỹ dai dẳng hơn ở châu Âu.

Lạm phát ở cả hai nền kinh tế đều đã giảm mạnh từ đỉnh, nhưng các thống kê lạm phát của Mỹ có dấu hiệu nóng trở lại trong mấy tháng gần đây, trong khi lạm phát ở eurozone tiếp tục xuống thang. Nền kinh tế Mỹ được dự báo tăng trưởng 2,7% trong năm nay, so với mức dự báo tăng 0,8% của eurozone.

Ông Powell thừa nhận tăng trưởng kinh tế Mỹ đang “khá mạnh”, nhưng cho rằng thị trường lao động của nước này đang “dịch chuyển theo hướng cân bằng hơn” và tăng trưởng tiền lương đang chậm lại.

Nhà kinh tế trưởng Steven Blitz của công ty TS Lombard không cho rằng Fed sẽ phải tăng thêm lãi suất - kịch bản mà một số nhà quan sát đã nghĩ đến trong thời gian gần đây. “Liệu có đến lúc chúng ta phải nghĩ đến việc lãi suất tăng thêm? Tôi không nghĩ điều đó có thể xảy ra trong tương lai gần”, ông Blitz nói với tờ Financial Times.

Tin mới

Công nghệ mới - Yếu tố định hướng thị hiếu khách hàng thị trường ô tô lớn nhất thế giới

Công nghệ mới - Yếu tố định hướng thị hiếu khách hàng thị trường ô tô lớn nhất thế giới

Tại thị trường ô tô lớn nhất thế giới, các nhà sản xuất xe điện của Trung Quốc đang trang bị thêm các phụ kiện công nghệ cao như một hướng đi mới cho xe của họ nhằm thu hút khách hàng. Các nhà điều hành và chuyên gia ô tô cho biết khách hàng Trung Quốc muốn ô tô của họ phải ngày càng "thông minh hơn".
Nhu cầu xe động cơ đốt trong bất ngờ tăng trở lại, ngành ô tô châu Âu trước nguy cơ rơi vào cảnh hỗn loạn

Nhu cầu xe động cơ đốt trong bất ngờ tăng trở lại, ngành ô tô châu Âu trước nguy cơ rơi vào cảnh hỗn loạn

Nhìn bề ngoài, thị trường Tây Âu dành cho tất cả xe sedan và SUV vào năm 2024 đã chậm lại một chút nhưng có vẻ vẫn “khỏe mạnh”. GlobalData cho biết họ dự kiến doanh số bán hàng của châu Âu sẽ tăng 4,5% trong năm nay lên 11,98 triệu chiếc, chậm hơn nhiều so với mức tăng 13,9% của năm ngoái. Nhưng ngành ô tô ở châu Âu đang rơi vào tình trạng hỗn loạn khi tốc độ tăng trưởng doanh số bán xe điện chậm lại bất ngờ đặt ra câu hỏi về lượng vốn khổng lồ đầu tư vào phát triển chúng.
#Auto Hashtag: Vấn đề chất lượng xe Trung Quốc trong con mắt của người dùng Việt

#Auto Hashtag: Vấn đề chất lượng xe Trung Quốc trong con mắt của người dùng Việt

Một sản phẩm vay mượn có thể dễ dàng được hoàn thiện ở phần vỏ bên ngoài, nhưng rất khó để đạt được chất lượng và sự vận hành ổn định, bền bỉ ở bên trong. Trong nhiều năm, các thương hiệu ô tô Trung Quốc đã tìm cách khắc phục những sai lầm trước đó để mang đến những sản phẩm mới nhất và có giá trị nhất cho thị trường thế giới. Thế nhưng, để có thể thay đổi được những định kiến cũ và tạo niềm tin cho người tiêu dùng thì xe Trung Quốc cần thời gian để hoàn thiện về chất lượng. Đó cũng là nội dung chủ đề sẽ được chúng tôi phân tích trong chương trình Auto Hashtag ngày hôm nay.